Lượt xem: 64

12-07-2021 16:40

Không dễ gì để trở thành một minh sư địa lý. Nhìn lại nghìn năm lịch sử, với bao nhiêu triều đại mà những danh sư phong thuỷ địa lý chỉ chưa đến chục người thành danh. Nhưng nay xét lại, những kiến thức họ để lại vẫn còn khoảng trống rất lớn về địa lý phong thuỷ chưa được giải mã, khiến những kẻ hậu thế yêu thích môn học này nhìn ngoài thấy bức tranh vô cùng đẹp mà bước vào tối tăm không biết đường đi. Nếu bước qua giai đoạn tối tăm ấy bước được ra ánh sáng, bạn sẽ đến đỉnh cao của ánh sáng tri thức địa lý. Mà cụ Tả Ao một bậc thầy địa lý nước ta coi như là tri thức của Tiên giới. Có những thứ mà bạn cả đời cũng không hiểu nổi, nhưng có khi chỉ một ý nghĩ bạn đã thông suốt tất cả.

Ta kể cho quý vị nghe các câu chuyện sau:

1/ Mai hoa dịch số ghi lại câu chuyện như sau: chuyện kể rằng vào một đêm mùa Đông, lúc giờ Dậu, Thiệu Khang Tiết (pháp sư thời phong kiến Trung Hoa) còn đương dùng than sưởi ấm bỗng nghe tiếng gõ cửa. 

Thoạt đầu nghe gõ 1 tiếng, lát sau lại nghe gõ tiếp 5 tiếng nữa và nói xin vào mượn đồ. 

Tiên sinh nghe tiếng nói, bèn bảo con toán quẻ xem người kia muốn mượn vật gì? 

Người con liền lấy 1 tiếng gõ đầu tiên làm Thượng quái là Càn và 5 tiếng gõ liên tiếp lần sau làm Hạ quái là Tốn, rồi cộng cả 2 quẻ lại được 6, gia thêm giờ Dậu là số 10 (giờ Dậu là giờ thứ 10 trong hàng chi), tất cả được 16 trừ cho (2 lần 6 là 12) còn lại 4, tức là hào 4 động, được tên quái là Thiên Phong Cấu. 

Hào 4 động biến ra quẻ Tốn, hổ quái lại thấy trùng Càn. 

Trong toàn quái có 3 quẻ: 3 quẻ Càn thuộc Kim và 2 quẻ Tốn thuộc Mộc; cho là mượn đồ có cả Kim lẫn Mộc, vì xét thấy Càn là Kim (thuộc về loại ngắn), mà Tốn là Mộc (thuộc về loại dài), nên ông con (người con) đoán là mượn cày, vì cho rằng Kim đoản, Mộc trường (loại Kim ngắn, loại Mộc dài tức là cái cày). 

Tiên sinh bèn đổi lại: Chẳng mượn cày, tất nhiên mượn búa. Khi hỏi lại người mượn, quả nhiên anh ta mượn búa. 

Người con hỏi lại Tiên sinh: Vì cớ gì cha bảo chắc là mượn búa? Tiên sinh bèn giảng cho con nghe rằng: "Phàm đoán quẻ, tất phải xét đến lý, theo quẻ đoán cái búa cũng phải, đoán cái cày cũng phải. Còn lấy cái lý mà suy đoán cái búa thì đúng hơn. Vì đêm hôm là giờ nghĩ, ai lại mượn cái cày làm gì? Tất phải mượn búa để chẻ củi thì có lý hơn. Cho nên suy số, tất phải xét đến lý, đó là thiết yếu nhất trong khoa chiêm bốc vậy. Cứ theo số mà suy lại không xét đến lý tất không có hiệu nghiệm. 

Lời bàn: Người nắm rõ huyền cơ là người có thể biết chính xác đến 99% sự việc, nhìn thấu thị được mọi vật nhìn được cả dáng và hình. Còn người chưa đến ngưỡng nhìn sẽ còn lờ mờ như bị sương mù che mắt, thấy dáng mà không rõ hình là vậy.

2/ Câu chuyện thứ 2: Thầy bói xem voi

Được ngày rảnh rỗi, không có khách nào vào xem bói và bói bài tây cả nên năm ông thầy bói mù cùng nhau ngồi tán phét.

Ông nào cũng chưa từng một lần nhìn thấy con voi nên không biết hình thù nó ra sao. Bỗng nghe dân tình kháo nhau có người đang dắt voi đi ngang qua làng. Năm ông thầy bói chung tiền vào đưa cho người quản voi bảo họ cho voi dừng lại để xem.

Ông sờ vòi, ông sờ ngà, ông thì sờ chân, ông thì sờ tai còn ông thì sờ đuôi. Sau khi sờ voi kĩ lưỡng thì 5 ông thầy lần lượt phán.

Thầy sờ vòi của voi thì phán:

– Tôi cứ tưởng con voi nó thế nào chứ hóa ra nó cũng sun sun như con đỉa thôi.

Thầy sờ ngà voi thì lại phán:

– Tôi thấy nó đâu có như con đỉa, nó dài dài cứng cứng như cái đòn càn.

Tiếp đến thầy sờ tai thì phán:

– Không phải, nó bè bè như là cái quạt thóc.

Thầy sờ chân voi phản ứng ngay:

– Các ông đều sai hết, nó sừng sững như là cái cột đình vậy.

Cuối cùng thầy sờ đuôi phán:

– Bốn ông chả ai nói đúng cả, tôi thấy nó tua tủa như là cái chổi xể cùn.

Năm ông thầy mỗi ông một ý, không ông nào chịu nhường ông nào cả nên nhảy vào cãi lộn rồi xô xát đến mức sứt đầu mẻ trán.

Lời bàn: Kẻ học mà không thể nhìn được đại cục, chỉ thấy được tiểu cục ắt sẽ bị sai lầm. Cho nên khi nói chuyện với những kẻ không cùng đẳng cấp cãi nhau chỉ phí lời bởi nói với họ chỉ như nói với bức vách mà thôi. Mâm nào chỉ nên ngồi mâm đó, để ngồi được cùng mâm cần phải phấn đấu không ngừng.

3/ Câu chuyện thứ 3 

Tổ sư môn phái Akido đã giác ngộ thế nào để trở thành một đại sư võ thuật huyền thoại

 Ueshiba Morihei : Sinh sinh ngày 14/12/1883 tại vùng Wakayama ( nay là Tanabe) gần Osaka. Tiên sinh là người con trai duy nhất trong gia đình cùng bốn người chị em khác. Tiên sinh đã có công lãnh hội nhiều trường phái võ thuật của Nhật Bản để sáng lập ra hệ phái Aikido (Hiệp khí đạo), được đánh giá là võ phái phụng sự hòa bình cho con người trên trái đất. Tiên Sinh Đại Hoàn Nguyên vào ngày 26/4/1969 hưởng dương 85 tuổi. Khi đó, Hombu Dojo (Bản Bộ Đạo Trường”) đã là một tòa nhà ba tầng rộng rãi và Aikido đã là môn võ được hàng ngàn người trên khắp thế giới yêu mến và tập luyện.

Thuở thiếu thời, Ueshiba Morihei Tiên Sinh là một cậu bé thể chất yếu đuối, dễ xúc cảm. Năm 7 tuổi, Tiên Sinh học chữ với một vị sư Phật giáo tên Fujumoto Mitsujo. Vào giai đoạn này thường có những chuyện hoang đường được lưu hành trong vùng Kumano. Những câu chuyện này do Kobodaishi từ Trung Quốc về thuật lại và chúng gây ấn tượng sâu sắc vào tâm trí của Tiên Sinh khiến Tiên Sinh miên man trong những mộng tưởng vô tận. Phụ thân của Tiên Sinh là Ueshiba Yoroku rất lo lắng vì khuynh hướng mơ mộng của Tiên Sinh, và cũng để tăng cường thể lực cho con nên bắt Ueshiba Morihei tiên sinh tập Sumo và bơi lội. Trong những năm đầu tiên học tiểu học, Tiên Sinh còn nhận được ảnh hưởng đào tạo của thầy giáo mình là Nasu Tasaburo, trên cả hai phương diện thể chất và tinh thần. Vị này về sau trở thành một nhân vật quan trọng trong lĩnh vực tôn giáo.

Năm lên 13 tuổi Tiên Sinh vào trường trung học Tanabe nhưng chỉ lưu lại ở đó một năm vì sở thích của Tiên Sinh là học Soroban (1 loại bàn tính kiểu cổ). Ueshiba Morihei Tiên Sinh có năng khiếu đặc biệt trong môn này và chỉ không đầy một năm sau, Tiên Sinh tiến bộ đến mức trở thành phụ tá giảng viên. Sau đó Tiên Sinh vào làm cho nhân viên sở thuế Tanabe. Tại đó, Tiên Sinh phụ trách về thuế điền thổ. Trong lúc làm công việc thu thuế Tiên Sinh cũng lưu tâm đến các vấn đề của nông dân và ngư dân và cảm thấy bất bình vì những điều kiện làm việc của họ. Tiên Sinh tham gia vào những cuộc biểu tình đòi cải tổ, thay đổi một sắc luật mới về ngư nghiệp. Sau những đàn áp gắt gao, Tiên Sinh xin từ nhiệm và lên thủ đô Tokyo. Thoạt tiên, Tiên Sinh làm một chân chạy việc trong một cửa hiệu bán sỉ. Vào mùa xuân 1902, Ueshiba Tiên Sinh thuê một gian hàng tại Asakusa dưới bảng hiệu Ueshiba Shokai để bán văn phòng phẩm cho các học sinh, sinh viên, trong khu vực.

Vào thời điểm này, sự lưu tâm của Ueshiba Tiên Sinh đối với võ đạo ngày càng tăng. Sau giờ đóng cửa tiệm, Tiên Sinh chú tâm thọ giáo võ sư Takusaburo Tozawa các kỹ thuật Jujitsu (nhu thuật); đồng thời Tiên Sinh cũng tập Kenjutsu (kiếm thuật) tại một đạo đường của phái Shinkage. Sau ít tháng, Ueshiba Morihei Tiên Sinh bị bệnh phù thủng và phải trở lại Tanabe, Tại đó, Ueshiba Morihei Tiên Sinh kết duyên với một tri kỷ từ thời niên thiếu là Itokawa Hatsu.

Từ lúc trở về quê nhà, Ueshiba Morihei Tiên Sinh thề quyết tạo cho mình một thân hình cường tráng, lực lưỡng. Tiên Sinh khổ công theo đuổi một chương trình huấn luyện khắc nghiệt và tiệm tiến, dựa trên điều kiện sức khoẻ và lực cơ bắp. Lúc hai mươi tuổi, dù có một chiều cao và vóc dáng nhỏ bé (1m54), nhưng Morihei Tiên Sinh lại có một sức mạnh trên người bình thường rất nhiều. Nhưng sức mạnh thể xác thuần tuý vẫn không làm Tiên Sinh hài lòng, do đó Tiên Sinh đến Sakai để thọ giáo kiếm thuật của phái Yagyu với võ sư Masakatsu Nakai.

Năm 1903, tình hình giữa Nga và Nhật trở nên căng thẳng, Ueshiba Tiên Sinh đăng ký vào trung đoàn bộ binh 61 đồn trú tại Osaka. Chẳng bao lâu, Tiên Sinh trở thành vô địch trong tất cả các môn luyện tập và đặc biệt là môn Ju kenjutsu.

Trung đoàn của Ueshiba Morihei Tiên Sinh được gởi đến mặt trận Mãn Châu. Tại đó, tác phong gương mẫu của Tiên Sinh khiến cấp trên lưu ý và chàng được thăng cấp trung sĩ. Khả năng chiến đấu của Tiên Sinh kỳ diệu đến nỗi các chiến hữu đặt cho chàng biệt danh là “Heitai no kami sama” (vị thần của binh đoàn). Lúc Tiên Sinh được giải ngũ, vị chỉ huy của Tiên Sinh khuyên Tiên Sinh vào trường huấn luyện sĩ quan để theo nghiệp binh. Ueshiba Morihei Tiên Sinh từ chối đề nghị này và về quê nhà để lo việc đồng áng. Trong suốt bốn năm chiến tranh, Tiên Sinh không ngừng tập luyện võ thuật và vẫn tiếp tục liên lạc với võ sư Nakai, thuộc môn phái Yagyu. Sau khi lãnh hội được chân truyền, Tiên Sinh đã được phong đến cấp Mankyo Kaiden (cấp bậc cao trong các võ phái của Nhật, là người kế thừa truyền thống của môn phái, có quyền được nhận đệ tử và ban đẳng, cấp của môn phái cho các đệ tử sau này.)

Trong thời gian này, Ueshiba Morihei Tiên Sinh tràn đầy sinh lực và chú tâm đến các vấn đề chính trị, xã hội trong vùng. Tiên Sinh thiết lập một cơ sở tương tự như một câu lạc bộ sinh hoạt thanh niên. Tại đây Tiên Sinh thiết lập một võ đường để tập luyện Judo với một võ sư tam đẳng vừa mới đến cư ngụ trong thành phố. Vị này, tên Kiyoichi Takagi, sau này trở thành cửu đẳng huyền đai nhu đạo.

Năm 1910, chính phủ Nhật muốn khai thác và di dân đến vùng Hokkaido nên kêu gọi những người tình nguyện đi di dân lập nghiệp, Ueshiba Morihei Tiên Sinh nhận thấy chương trình đó bổ ích nên tập họp một nhóm 80 người để lên đường như những kẻ tiên phong. Sau một cuộc hành trình dài hai tháng, họ đến Hokkaido và hạ trại tại một nơi mà sau này trở thành ngôi làng Shirataki. Sau hai năm khai hoang và lao động vất vả, và họ bắt đầu gặt hái thành quả và quyết định định cư tại đó. Ueshiba Morihei Tiên Sinh là một người rất dồi dào sáng kiến: Tiên Sinh nghĩ ra việc trồng cây bạc hà, thiết lập một cơ sở khai thác lâm nghiệp. Tiên Sinh cũng đầu tư vào việc chăn nuôi bò, ngựa và dựng lên tổ hợp chế biến sữa. Với sự thúc đẩy của Tiên Sinh người ta đã dựng lên một trung tâm thương mại, một ngôi trường và một bệnh xá. Tiên Sinh cũng đã đóng góp vào việc mở mang ngôi chùa Shirataki.

Tháng 2/1925, trong chuyến du hành đến Engaru, Tiên Sinh gặp vị đại sư của môn phái Daito tên Takeda Sokaku tại khách sạn Kubota. Đại sư Takeda nhận ra ngay ở Tiên Sinh một nhân cách phi phàm và ông quyết định truyền thụ lại tất cả các bí quyết của môn phái Daito Ryu . Dù thoạt tiên chỉ ghé qua đây, Ueshiba Morihei Tiên Sinh quyết định kéo dài thời gian và lưu lại một tháng để luyện tập với vị Sư phụ mới của mình.

Sau khi trở lại Shirataki, Tiên Sinh mở một đạo đường và mời thầy Takeda đến dạy. Tiên Sinh xây cả một ngôi nhà cho thầy mình và chu cấp mọi nhu cầu cho ông. Khi nhận được văn bằng đặc biệt của phái Daito Ryu thì Tiên Sinh đã chỉ học với đại sư Takeda chỉ vỏn vẹn có một trăm ngày. Thời gian còn lại dành cho việc luyện tập cá nhân.

Tháng 6/1918, người ta đề nghị Tiên Sinh ra ứng cử vào Hội đồng thành phố và Tiên Sinh đắc cử chức uỷ viên. Cũng vào dạo đó, do sáng kiến của Tiên Sinh, người ta bắt đầu xây dựng đường xe lửa Hokkaido.

Tháng 11/1919, Tiên Sinh nhận được tin xấu về tình trạng sức khoẻ của phụ thân. Rất xúc động, ngài quyết định bỏ lại tất cả của cải và cùng với gia đình trở về Tanabe.

Trên đường về, Tiên Sinh nghe đồn tại vùng Ayabe có một vị đại sư có nhiều quyền lực tinh thần tên là Deguchi Onisaburo, Ueshiba Morihei Tiên Sinh quyết định tạt lại thăm đại sư Deguchi để xin ông ta cầu an cho phụ thân mình. Tiên Sinh cảm thấy cần phải có cuộc gặp gỡ này trong lúc đang trải qua thử thách, vì nhận thức rằng dù bản thân võ nghệ và khí lực tuyệt luân nhưng sức mạnh tinh thần thì vẫn mơ hồ và yếu đuối và dễ bị chao đảo khi gặp một thử thách tâm lý.

Phụ thân của Tiên Sinh mất ngày 2/1/1920 và Tiên Sinh chỉ về đến nhà ở Tanabe hai ngày sau đó.

Cái chết của phụ thân làm Ueshiba Morihei Tiên Sinh rất phiền não, Tiên Sinh trải qua nhiều tháng trầm tư và quyết định đến cư ngụ tại Ayabe trong ngôi đền của giáo phái Omotokyo để học hỏi với sự hướng dẫn của ngài Deguchi Onisaburo.

Omotokyo là một giáo phái thuộc Thần đạo được bà Deguchi Nao sáng lập. Sau khi tiếp nhận được những mặc khải thần linh, giáo phái đã phát triển mạnh khi người rể của bà là Ueda Kitasabuno (sau đổi tên thành Deguchi Onisaburo) trở thành vị thủ lĩnh. Đối với Omotokyo, theo như lời nhận định của giáo sư Jean Herbert thì “THẦN là tinh thần thấm nhuần toàn cõi vũ trụ và con người là người quản gia cai trị trời đất. Một khi con người đã hợp nhất được với THẦN  thì sẽ có được một quyền năng vô tận. Con người là đền thờ của THẦN và THẦN cũng chính là thành luỹ của con người. Con người và THẦN liên lập với nhau”.

Omotokyo truyền cho các tín đồ của mình tuân theo ba giới luật để có thể đến gần Thượng đế:

    Hãy quan sát các hiện tượng thực của thiên nhiên và bạn sẽ suy nghiệm được bản thể của chân Thần.

    Hãy quan sát sự tuần hoàn tuyệt hảo của vũ trụ và bạn sẽ suy nghiệm được năng lực của chân Thần

    Bạn hãy quan sát tâm trí của các sinh vật để nhận thức được linh hồn của chân Thần

Deguchi Onisaburo bị chính quyền nghi ngờ và đã nhiều lần bị tống ngục vì nhiều lý do, trong đó có lý do phạm thượng đối với Thiên Hoàng và vi phạm luật báo chí. Dù vậy, ông đã hoạt động một cách hăng say trong lĩnh vực xã hội cho những người già yếu, mồ côi, khốn cùng cũng như trong lĩnh vực chữ viết. Là một người chủ trương hoà bình, ông thành lập hiệp hội bảo vệ tình thương và tình huynh đệ thế giới vào năm 1925. Ông liên lạc với nhiều tôn giáo trên thế giới và góp phần sáng lập liên đoàn các tôn giáo thế giới.

Ngày 13/2/1924, mặc dù vẫn còn bị chỉ định cư trú do tội khi quân, ông đã lặng lẽ rời nước Nhật để qua Mông Cổ cùng với một số đệ tử, trong đó có Ueshiba Morihei Tiên Sinh. Họ nuôi mộng xây dựng một vương quốc của hoà bình tại Mông Cổ – nơi các đội quân của Trung Quốc và Nhật đang đánh nhau – bằng cách tạo ra một sự liên minh giữa hai phe đang xâm chiếm và dựa vào thế lực của các tôn giáo mới.

Họ thất bại trong sự cố gắng của mình và bị người Trung Quốc bắt giam. Sau nhiều tháng tù đày và hơn một lần thoát chết trong gang tấc, họ bị giải giao về cho chính quyền Nhật. Khi được đưa về Nhật Bản, một đám đông vĩ đại đã đến hoan nghênh khi họ đặt chân lên cảng Moji vào cuối tháng 6/1925.

Trở lại Ayabe, Tổ sư Ueshiba Morihei càng nỗ lực nhiều hơn trong việc nghiên cứu về võ đạo và sống một cuộc sống khắc khổ. Chính vào thời điểm này, người tiếp một sĩ quan hải quân vốn là một võ sư Kendo đến thăm, vì được nghe danh của ngài. Trong câu chuyện trao đổi, do bất đồng ý kiến về một số điểm, vị khách đề nghị Ueshiba Morihei Tiên Sinh tỉ thí. Tổ sư trao cho viên sĩ quan một thanh kiếm gỗ và nói với ông ta là ngài không cần kiếm. Viên sĩ quan liên tiếp tấn công, nhưng vẫn không đụng được vào Tiên Sinh. Thấm mệt, ông ta dừng tay và Tiên Sinh giải thích cho ông là bản thân cảm nhận trước những đòn tấn công ngay trước khi ông động thủ. Tiên Sinh thấy một loé sáng thoáng chốc trước khi thanh kiếm chạm vào người, nhờ vậy Tiên Sinh có thể tránh né một cách dễ dàng.

Ít lâu sau cuộc tỉ thí với viên sĩ quan Hải quân, Ueshiba Morihei Tiên Sinh ra sau vườn đến bờ suối để rửa mặt. Chính vào lúc đó Tiên Sinh đã được giác ngộ. Một cảm nhận đột ngột khiến Tiên Sinh không thể chủ động được và nhận thấy thân mình bỗng trở nên thanh khiết. Đồng thời Tiên Sinh cảm nhận trời đất bắt đầu rung chuyển. Từ dưới đất như có một nguồn ánh sáng óng ánh vàng toả ra, khi chạm vào thân thể Tiên Sinh thì nó biến đổi và tự thân toát ra một hào quang uy nghi. Tiên Sinh nghe tiếng chim kêu và tự thấy mình linh cảm được những bí mật của đấng tạo hoá.

Chính vào lúc đó, Tiên Sinh hiểu được cội nguồn của chân võ đạo chính là tình yêu và tinh thần, chân võ đạo là không nhằm chiến thắng đối phương bằng sức mạnh mà giữ được bình an của thế giới, cảm nhận và giúp phát triển mọi loài, mọi vật. Tiên Sinh hiểu là việc luyện tập sẽ đưa con người đến chỗ sung mãn đó, đến tình trạng ân sủng, trong đó con ngưởi cảm nhận được sự hoà hợp của thế giới vật chất và thế giới tinh thần.

Nếu sự tham gia tinh thần hiện hữu trong tất cả các môn võ thuật Nhật Bản thì trong thực tế chưa hề có người nào đào sâu nó đến độ bao gồm các tình thương nhân loại như mục đích của chân võ đạo (hãy suy nghĩ về điều này và sự giác ngộ của của người sáng lập akido). Tình thương thì không đố kỵ, tình thương không có thù địch. Đó là lý do khiến Ueshiba Morihei Tiên Sinh quyết định gọi võ đạo của ngài là Aikido.

Lời bàn: Vậy nên có người hỏi Ta, căn cứ vào cái gì ông cho mình là Đại sư thì ba câu chuyện trên là lời Ta trả lời cho các vị. Đã là bậc làm Thầy khi đã đi qua những cơ bản, cần chiêm nghiệm rút ra những vi diệu , hiểu được cái lõi mà bỏ qua mọi cái vỏ vụn vặt.

Những kiến thức mọi sách vở chỉ là nền tảng cho sự giác ngộ. Ta chỉ nói 1 câu: Khi nào các bạn đạt đến đẳng cấp cao nhất của nghề là lúc các bạn đã coi tất cả đống sách dù quý đến mấy đều đáng ném vào thùng rác . 

Vậy nên, thứ mà các bạn đang sở hữu, thứ mà các bạn đang có thì đến lúc phải không nên có.

Nhưng ta nghĩ Thiên Hạ khó có thể nhiều kẻ mở được then khoá của trời đất. Bởi sẽ lộ hết thiên cơ của trời. Thiên hạ là của trời, người là số 0, chỉ nên có một số duy nhất nó mới có nghĩa. Chỉ có kẻ đủ nhân duyên phúc đức hội tụ mới xứng đáng...

Nhất Đại Tôn sư:   Vũ Duy

 

Cham soc khach hang

Đang truy cập: 22
Trong ngày: 864
Trong tuần: 6122
Lượt truy cập: 126238
qc duoi cung

khang_xuan_duong

Đông Y KHANG XUÂN ĐƯỜNG
Địa chỉ: 32 Đại Từ, Đại Kim, Hoàng Mai, Hà Nội.
Email:  khangxuanduong123@gmail.com
Điện thoại tư vấn:  088.688.9194, 097.401.5494
(*) Lưu ý: Tác dụng của phương pháp (thuốc) tùy thuộc vào cơ địa của mỗi người. Nội dung trên website này chỉ có tác dụng tham khảo, không phải tư vấn cho từng cá nhân cụ thể, bệnh nhân không nên tự ý sử dụng các thông tin này để điều trị khi chưa có ý kiến của thầy thuốc.